Việt Nam là quốc gia được thiên nhiên ưu ái và trao tặng nhiều nguồn tài nguyên thiên nhiên quý giá. Theo “Danh bạ các nguồn khoáng, nước nóng” – 1998 của Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam, nước ta hiện có hệ thống gần 400 nguồn khoáng thiên nhiên trải dài từ Nam ra Bắc, trong đó có khoảng hơn 150 nguồn khoáng đạt độ nóng tự nhiên. Những công dụng tuyệt vời của khoáng nóng thiên nhiên với sức khỏe con người đã được giới chuyên môn công nhận cũng như thực tế chứng minh trong nhiều năm qua.
Việt Nam – đất nước giàu tài nguyên “vàng trắng”
Nước khoáng thiên nhiên, vẫn được dân gian ví von như “vàng trắng” bởi sự quý hiếm cũng như những giá trị đặc biệt. Cho đến nay chưa có số liệu thống kê đầy đủ và chính xác về số lượng các nguồn khoáng và khoáng nóng trên toàn quốc, tuy nhiên, dựa trên kết quả nghiên cứu của 287 nguồn khoáng đã được điều tra, có kết quả phân tích mẫu tương đối đầy đủ, đáng tin cậy nên Cục Địa chất đã có những đánh giá và xếp thành các nhóm loại cụ thể và đặt tên theo nhóm các yếu tố đặc hiệu.
Nước khoáng carbonic
Theo số liệu thống kê đến thời điểm hiện tại, thuộc loại này có 15 nguồn, bao gồm 8 mạch lộ (hoặc cụm mạch lộ) và 7 lỗ khoan (hoặc cụm lỗ khoan), phân bố chủ yếu trên một vùng rộng lớn từ Bình Thuận đến Đồng Nai, Bà Rịa -Vũng Tàu, Lâm Đồng, Đắc Lắc. Hàm lượng CO2 trong nước thường gặp 800-1000 mg/l, không ít nguồn đạt tới 2.000-2.020 mg/l.
Các nguồn nước khoáng (NK) carbonic thường xuất lộ theo những đứt gãy trong các thành tạo magma ở những vùng hoạt động núi lửa trẻ. Tại đó khí CO2 hình thành do quá trình biến chất nhiệt được đưa vào nước, tạo nên loại NK giàu CO2. Đó chính là nguyên nhân của sự phân bố rộng rãi loại NK này ở vùng Nam Trung Bộ, Đông Nam Bộ, Tây Nguyên là phần lãnh thổ đã trải qua các hoạt động magma mãnh liệt, được các nhà địa chất khoanh thành “tỉnh NK carbonic” rất đặc trưng với những nguồn tiêu biểu như (con số là hàm lượng CO2 trong nước, mg/l): Vĩnh Hảo (Bình Thuận)÷ 800; Châu Cát (Bình Thuận)÷ 1.100; Suối Nghệ (Bà Rịa – Vũng Tàu)÷ 1.000; Suối Nho (Đồng Nai)÷ 500; Phú Hội (Lâm Đồng)÷ 500; Đắc Mol (Đắc Lắc)÷ 1200. Ngoài ra có một số nguồn phân bố rải rác trong những vùng tương tự ở miền Bắc như: Bản Khạng (Nghệ An)÷ 1.156; Bình Ca (Tuyên Quang)÷ 2.280; Mường Luân (Lai Châu)÷ 1.500…
Nước khoáng silic
Thuộc loại này đã đăng ký được 95 nguồn, phần lớn phân bố ở các tỉnh từ Quảng Bình đến Bình Thuận (58 nguồn). Số còn lại được phát hiện rải rác ở những nơi khác. Hàm lượng silic (tính theo H2SiO3) trong nước thường gặp từ 70-80 đến 100-110 mg/l, cá biệt có nguồn lên đến 120 -140 mg/l và hơn nữa, đến mức chiếm vị trí nhất – nhì trong các anion theo công thức Kurlov. Có thể kể một số nguồn tiêu biểu như (con số là hàm lượng H2SiO3, mg/l): Làng Rượu (Quảng Trị)÷ 117; Quế Phong (Quảng Nam)÷ 126; Tú Sơn (Quảng Ngãi)÷ 142; Rang Rịa (Kon Tum)÷ 124; Đa Kai (Bình Thuận)÷ 138; Bình Châu (Bà Rịa-Vũng Tàu)÷ 146…
Nước khoáng sulfur – hydro
Các nguồn NK sulfur hyđro phân bố chủ yếu ở miền Tây Bắc Bộ và miền Trung Trung Bộ từ Thừa Thiên-Huế đến Quảng Ngãi, Kon Tum. Theo các dấu hiệu trực quan nhận biết được một cách định tính trong khi khảo sát (nước có mùi “trứng thối”, có kết tủa màu vàng…) chắc là có nhiều nguồn thuộc nhóm này nhưng số liệu phân tích định lượng hãy còn nghèo nàn nên mới xếp loại được 6 nguồn sau đây (con số là tổng hàm lượng H2S + HS–, mg/l): Bản Trang (Lai Châu)÷ 12; Mỹ Lâm (Tuyên Quang)÷ 5,6; Bang (Quảng Bình)÷ 10; Tân Lâm (Quảng Trị)÷ 3,46; Mỹ An (Huế)÷ 64,5; Lũng Viềng (Quảng Nam)÷ 15
Nước khoáng fluor
Loại NK fluor phổ biến rộng rãi ở miền Trung và Nam Trung Bộ. Fluor được phát hiện trong nước với hàm lượng từ 2 đến 7 mg/l, không ít nguồn đạt tới 10 -12 mg/l và hơn nữa. Có 49 nguồn được xếp vào loại này. Chúng phân bố chủ yếu ở các tỉnh Nam Trung Bộ (39 nguồn). Số còn lại nằm rải rác ở các tỉnh khác. ở nhiều nguồn fluor thường có mặt đồng thời với silic nên NK thường được định danh là NK silic-fluor. Một số nguồn tiêu biểu là (con số chỉ hàm lượng F– trong nước, mg/l): Đồng Nghệ÷ 11,4; Phúc Thọ÷ 14,4; Nghĩa Thuận÷ 8,5; Hội Vân÷ 14,8; Phước Long÷ 16,3; Kon Braih÷ 14,4 v.v…Nhiều nguồn ở Tây Bắc Bộ cũng chứa F nhưng với hàm lượng thấp hơn (1-2 mg/l), chưa đạt tiêu chuẩn xếp vào NK fluor nhưng cũng cần chú ý nghiên cứu, vì đó là hàm lượng thích hợp với tiêu chuẩn NK đóng chai làm nước giải khát, có tác dụng phòng ngừa bệnh sún răng, xốp xương.
Nước khoáng arsen
Về arsen trong nước còn ít được nghiên cứu. Đến nay mới có 1 nguồn là nguồn Nghĩa Thuận (Quảng Ngãi) có hàm lượng As = 0,8 mg/l (theo kết quả phân tích của Viện Pasteur Sài Gòn nêu trong công trình của H.Fontaine năm 1957.
Nước khoáng sắt
Loại nước chứa nhiều sắt gặp phổ biến trong các tầng chứa nước trầm tích Đệ tứ và Neogen ở các đồng bằng Bắc Bộ, Nam Bộ và rải rác ở nhiều nơi khác với hàm lượng (Fe2+ + Fe3+) từ một vài chục đến hàng trăm mg/l. Chỉ xếp vào loại NK sắt những nguồn được hình thành liên quan với các mỏ hoặc điểm khoáng hóa quặng sắt hay sulfur đa kim chứa sắt. Như vậy những loại nước chứa sắt tồn tại trong các trầm tích Đệ tứ ở nhũng vùng đồng bằng không xem là NK sắt, trừ những trường hợp sắt đi đôi với những yếu tố đặc hiệu khác. Đáp ứng điều kiện đó chỉ có 2 nguồn sau đây (con số là ∑ Fe2+ + Fe3+, mg/l) : Kép Hạ÷ 371; Bình Lợi÷ 272 (sắt đi kèm Br, I).
Nước khoáng brom
NK brom được phát hiện chủ yếu nhờ các lỗ khoan sâu trong trầm tích Neogen ở đồng bằng Bắc Bộ (10 nguồn) trong quá trình tìm kiếm dầu khí. Ngoài ra cũng gặp rải rác ở những vùng khác: Lai Châu (2 nguồn); Yên Bái (2 nguồn), Quảng Ninh (2 nguồn), Bắc Giang (1 nguồn), Hải Phòng (1 nguồn), Ninh Bình (1 nguồn), Tây Nam Bộ (2 nguồn), TP Hồ Chí Minh (1 nguồn). Tổng số 32 nguồn. Chắc chắn đồng bằng Bắc Bộ là một bồn artesi lớn chứa NK brom (và cả iođ, bor…) liên quan với dầu khí, do vậy phần lớn các lỗ khoan sâu sẽ gặp NK brom với hàm lượng lớn.
Nước khoáng iod
Đến nay mới phát hiện được nước chứa hàm lượng iođ lớn đạt tiêu chuẩn xếp vào NK iođ trong 8 lỗ khoan tìm kiếm dầu khí ở Thái Bình, 3 nguồn lộ tại Yên Bái và 1 lỗ khoan ở thành phố Hồ Chí Minh. NK iođ thường đi đối với NK brom.
Nước khoáng bor
NK bor cũng thường được phát hiện đồng thời với NK brom và iođ trong 8 lỗ khoan tìm kiếm dầu khí ở Thái Bình, Nam Định và 2 nguồn lộ ở Lai Châu. Hàm lượng HBO2 đạt từ 4,5 đến 237 mg/l.
Nước khoáng radi
Việc nghiên cứu các nguyên tố phóng xạ trong nước từ trước ít được chú ý nên số liệu còn nghèo nàn. Tuy nhiên căn cứ vào kết quả phân tích ở một số nguồn hiện có, kết hợp với sự phân tích địa chất kiến tạo, sinh khoáng khu vực có thể dự đoán sự tồn tại loại NK này là một thực tế ở Việt Nam.
Theo số liệu phân tích độ phóng xạ radi của Sở Địa chất Tiệp Khắc cũ và Viện Hạt nhân thì 7 nguồn sau đây có thể xếp vào loại NK radi (con số là cường độ phóng xạ Ra226, pCi/l): Phù Lao-14; Tiên Lãng-63,45; Mỹ Khê-14,69; Thạch Trụ-72,9; Châu Cát-12,1; Suối Nghệ-17,9; Bình Châu-12,4.
Nước khoáng hóa
“Nước khoáng hóa” là loại nước có độ khoáng hoá cao, từ 1.000 mg/l trở lên (không liên quan với sự nhiễm mặn từ biển hoặc sự muối hóa thổ nhưỡng), ngoài ra không chứa một yếu tố đặc hiệu nào khác nên không thể xếp vào các loại NK kể trên (vì vậy có người gọi là “nước khoáng không có thành phần đặc hiệu”). Loại nước này thường có nguồn gốc sâu, được dẫn lên mặt đất theo những đứt gãy kiến tạo và nổi lên như một dị thường trên phông khoáng hoá địa phương của nước dưới đất. Sở dĩ loại nước này được xem là nước khoáng vì nó có tác dụng sinh học, quyết định bởi tổng hàm lượng của các ion. Có 62 nguồn thuộc loại này.
Nước nóng
Trong số 287 nguồn trong danh bạ có 34 nguồn nước nhiệt độ dưới 30oC, số còn lại (253 nguồn), có nhiệt độ từ 30oC trở lên, đạt tiêu chuẩn xếp vào nước nóng, trong đó 164 nguồn đồng thời là NK thuộc các loại kể trên, còn 89 nguồn là nước nóng không có yếu tố đặc hiệu. Theo thang nhiệt độ chúng được phân thành các cấp: ấm = 131 nguồn; nóng vừa = 77 nguồn; rất nóng = 41 nguồn; quá nóng = 4 nguồn (bảng 2).
Như vậy có thể nói, khoáng nóng là tài nguyên quý hiếm nhất trong các loại nước khoáng và nước nóng, bởi nó vừa chứa hàm lượng khoáng chất cao, vừa đạt nhiệt độ nóng tự nhiên.
Khoáng nóng Mỹ An – quà tặng vô giá từ thiên nhiên
Mạch nước khoáng Mỹ An (NKMA) ở xã Phú Dương, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa thiên Huế, cách thành phố Huế 7 km về phía Đông do Đoàn địa chất thuỷ văn 79 phát hiện khi khoan thăm dò nước vào tháng 6 năm 1979. GS.TS. Phạm Khắc Lâm (Đại học Y Dược Huế) đã công bố đề tài “Nghiên cứu tác dụng chữa bệnh cụ thể của mạch nước khoáng Mỹ An – Thừa Thiên Huế” và thu hút sự quan tâm, tham gia của hội đồng các nhà khoa học, bác sĩ và sự đánh giá cao của giới chuyên gia.
Nguồn khoáng nóng vô giá của Mỹ An kết hợp với phương pháp Onsen chuẩn Nhật
có tác dụng đặc biệt hiệu quả đối với trị liệu sức khỏe
Sau khi nghiên cứu toàn diện mạch nước khoáng Mỹ An nhằm đánh giá chất lượng nguồn nước; đánh giá mức độ an toàn khi sử dụng nguồn nước vào mục đích hỗ trợ chữa bệnh, phục vụ dân sinh, phát triển kinh tế xã hội, hội đồng nghiên cứu đã công bố kết quả như sau: “Nước khoáng Mỹ An thuộc loại nước khoáng nóng, natrichloro hydro carbonat có thành phần đặc hiệu hydrosulfua và nhiều thành phần khác có tác dụng hỗ trợ phòng và chữa bệnh, phục hồi chức năng, tăng cường sức khoẻ. Bên cạnh đó, nước khoáng Mỹ An hầu như có đủ các nguyên tố vi lượng cần thiết cho hoạt động và phát triển cơ thể. Nước khoáng Mỹ An hầu như không có độc chất hoặc có ở mức độ thấp, dưới giới hạn cho phép”.
Nghiên cứu cũng nhận định, nước khoáng Mỹ An thuộc loại nước khoáng vô khuẩn, không làm ảnh hưởng đến môi sinh, hàm lượng HS trong bầu khí quyển tại điểm nước phun và xung quanh điểm nước phun đều dưới giới hạn cho phép.
Vì vậy, nước khoáng Mỹ An với hàm lượng lưu huỳnh cao ( lên tới 64,5mg/l, được đánh giá cao nhất Việt Nam tới thời điểm hiện tại) và giàu khoáng chất quý với các liệu pháp thích hợp, có thể góp phần làm thuyên giảm được một số bệnh, tốt cho sức khỏe và sắc đẹp. Hơn nữa, nguồn khoáng tại Mỹ An còn đạt nhiệt độ nóng tự nhiên lý tưởng, 52 độ C khi lộ thiên và nhiệt độ về bể là 42 độ C, được xem là chỉ số hoàn hảo cho bể Onsen .
Vì vậy, để phát huy tối đa hiệu quả của khoáng nóng Mỹ An thì rất cần một quy trình chuẩn quốc tế, được nghiên cứu và đầu tư bài bản, nhằm đem lại ích lợi cho cộng đồng. Trân trọng nguồn khoáng quý giá thiên nhiên trao tặng, Tập đoàn Bitexco đã đầu tư ngay tại Mỹ An khu nghỉ dưỡng kết hợp chăm sóc sức khỏe cao cấp Kawara My An Onsen Resort. Tại đây, nguồn khoáng nóng Mỹ An kết hợp với công nghệ tắm onsen truyền thống Nhật Bản, được vận hành và quản lý dịch vụ bởi chính thương hiệu Kawara nổi tiếng về nghỉ dưỡng Onsen và chăm sóc sức khỏe hàng đầu Nhật Bản. Sự hợp tác chiến lược giữa hai thương hiệu hàng đầu được kỳ vọng tạo ra cú hích cho du lịch miền Trung nói riêng, và cả ngành công nghiệp không khói Việt Nam nói chung.
Ngày 28/4/2021, Kawara My An Onsen Resort chính thức mở cửa đón khách thương mại. Với quy mô quần thể nghỉ dưỡng phức hợp bao gồm khách sạn 5 sao, villa, khu onsen, hệ thống các phòng xông Ganban cùng nhiều tiện ích giải trí cao cấp khác, Kawara My An Onsen Resort chắc chắc sẽ là tâm điểm mới của du lịch miền Trung, đặc biệt với những du khách tới Huế hè này. |
Nguồn: “Danh bạ các nguồn khoáng, nước nóng” – 1998 của Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam